Sáng nay (7/5), Lễ diễu binh, diễu hành kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu" được tổ chức trọng thể tại tỉnh Điện Biên.

Thành lập chính quyền mới tại Campuchia

Ngày 5 tháng 1 năm 1979, 66 đại biểu Campuchia được triệu tập họp ở Mimot để bàn về việc thành lập một đảng cộng sản Campuchia mới. Đảng này lấy lại tên Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia có từ thời 1951. Pen Sovann, một cán bộ Campuchia tập kết về Hà Nội năm 1954, được đề cử giữ chức chủ tịch đảng. Những Uỷ viên thường vụ của đảng gồm Hun Sen, Bou Thang, Chan Kiri, Heng Samrin và Chia Soth.

Ngày 8 tháng 1 năm 1979, đài phát thanh Phnôm Pênh loan báo Phnôm Pênh đã được giải phóng bởi những lực lượng cách mạng và nhân dân Campuchia. Một Hội đồng cách mạng được thành lập do Heng Samrin làm chủ tịch. Khoảng mười ngày sau, hội đồng này ký một hiệp ước với Việt Nam, hợp thức hóa sự hiện diện của quân đội Việt Nam trên đất Campuchia.

Tới mùa xuân 1981, hiến pháp mới của Campuchia được thông qua, sau đó là cuộc bầu cử toàn quốc để chọn ra 117 đại biểu quốc hội. Hun Sen được bầu làm Bộ trưởng Ngoại giao, Heng Samrin làm Chủ tịch nước. Ba sư đoàn mới được thành lập và đặt dưới Bộ Quốc phòng, nhưng an ninh vẫn được duy trì chủ yếu dựa vào sự hiện diện của 180.000 quân Việt Nam (mà lực lượng chủ chốt là Quân đoàn 4) do thượng tướng Lê Đức Anh chỉ huy.

Chính quyền mới của Campuchia chỉ được một số nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa công nhận. Chính phủ của Pol Pot tiếp tục được các nước phương Tây, Trung Quốc và khối ASEAN công nhận và vẫn là thành viên Liên Hợp Quốc.

Hiệp định Paris về tái lập hòa bình tại Campuchia

Hiệp định có tên đầy đủ là Hiệp định về một giải pháp chính trị toàn diện cho cuộc xung đột Campuchia. Tham gia hiệp định gồm Úc, Brunei, Campuchia, Canada, Trung Quốc, Pháp, Ấn Độ, Indonesia, Nhật Bản, Lào, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan, Liên Xô, Anh, Hoa Kỳ, Việt Nam và Nam Tư, đại diện Tổ chức quốc tế có Liên Hợp Quốc.

Hiệp định có 9 chương, 32 điều. Nội dung cơ bản bao gồm[81]:

1. Về mặt nội bộ của Campuchia: Hội đồng Dân tộc tối cao Campuchia trao tất cả quyền lực cần thiết cho Liên Hợp Quốc thi hành hiệp định

Sau khi Việt Nam rút quân, ngày 16 tháng 3 năm 1992, Cơ quan chuyển tiếp Liên Hợp Quốc tại Campuchia (UNTAC), dưới đại diện đặc biệt UNSYG Yasushi Akashi và Trung tướng John Sanderson, đã tới Campuchia để bắt đầu thực hiện kế hoạch hòa giải của Liên Hợp Quốc, kế hoạch này đã được ký kết nhờ kết quả của Hội nghị Paris năm 1991. Cuộc bầu cử tự do đã được tổ chức vào năm 1993. Đảng Campuchia Dân chủ (PDK) (lúc này chỉ còn kiểm soát 6% dân số Campuchia) đã cản trở người dân tham gia.

Hoàng thân Norodom Ranariddh thuộc đảng bảo hoàng Funcinpec là người nhận số phiếu bầu cao nhất với 45,5% phiếu bầu, chiếm 58 ghế quốc hội, tiếp đến là Đảng Nhân dân Campuchia (CPP) của Hun Sen (nguyên là Đảng cộng sản Campuchia) do Việt Nam hậu thuẫn chiếm 51 ghế. Funcinpec đã phải đàm phán để liên hiệp với Đảng Nhân dân Campuchia do Hun Sen lãnh đạo.[82]

Một cố gắng ám sát Hun Sen đã được tiến hành vào năm 1996 bởi hai kẻ bắn tỉa bắn vào xe của ông ở thành phố Kandal. Hun Sen bình yên vô sự và tiếp tục từ tư dinh của ông ở Takhmau tới điện Chamcarmon ở Phnôm Pênh. Các cuộc đàm phán bí mật của Ranariddh với Khmer Đỏ nhằm mục đích gây dựng liên minh được xem là một sự khơi mào chiến tranh, Hun Sen đã quyết định ra tay trước để loại bỏ nguy cơ Khmer Đỏ quay lại. Từ ngày 5-6/7/1997 đã xảy ra cuộc xung đột ngay tại Thủ đô Phnôm Pênh. Với sự hỗ trợ từ các cố vấn quân sự Việt Nam, CPP đã dùng lực lượng quân sự đập tan nhóm FUNCINPEC.

Ngày 10/7/1997, ASEAN đã quyết định hoãn lại việc kết nạp Campuchia. Đứng trước tình hình này, Việt Nam đã chủ động tiến hành các hoạt động nhằm giúp đỡ, tạo điều kiện tối đa để Campuchia sớm được gia nhập ASEAN, kêu gọi cộng đồng quốc tế công nhận chính phủ Phnôm Pênh. Trong một nỗ lực khác, Việt Nam đã tích cực vận động và thuyết phục những nước có quan điểm thận trọng (Thái Lan, Singapore, Philipines) chấp nhận kết nạp Campuchia vào ASEAN. Việt Nam đã chuẩn bị trước tài liệu "Lễ kết nạp Campuchia vào ASEAN" và phân phát tài liệu này tại Hội nghị quan chức cấp cao ASEAN (SOM) ngày 8/12/1998. Ngoài ra, để tạo điều kiện thuận lợi cho Campuchia, phía Việt Nam đã mời Thủ tướng Hunsen sang thăm chính thức Việt Nam vào ngày 13/12, hai ngày trước khi Hội nghị cấp cao lần thứ VI khai mạc, nhằm giúp Campuchia vận động và thuyết phục các nước.

Trong cuộc bầu cử tháng 7/1998, đảng Nhân dân Campuchia (CPP) của Hun Sen giành thắng lợi. Hun Sen đã triển khai một chiến lược mới nhằm ly gián những đơn vị Khmer Đỏ còn lại bằng cách khuyến khích những lãnh đạo hàng đầu rời bỏ hàng ngũ chạy sang phía chính phủ. Quân số Khmer Đỏ giảm xuống còn 4.000 quân vào năm 1993 và chỉ còn khoảng 1.000 quân năm 1997. Khieu Samphan và Nuon Chea quy hàng Chính phủ Campuchia vào tháng 12/1998, Khmer Đỏ chính thức kết thúc tồn tại. Các lãnh đạo Khmer Đỏ còn sống cũng lần lượt bị bắt giam và bị tòa án quốc tế xét xử vì phạm những tội ác chiến tranh.

Theo nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, bản chất của các cuộc tấn công vào lãnh thổ Việt Nam do Khmer Đỏ là các đợt xâm lược khác nhau. Năm 1979, Việt Nam tiến hành chiến dịch phản công. Cơ sở pháp lý của Việt Nam trong xung đột với Campuchia (1978-1990) đã thể hiện rõ rằng đây là một cuộc phản kích tự vệ khi bị xâm lược, đặc biệt Khmer Đỏ đã tấn công các tỉnh biên giới Tây Nam Bộ của Việt Nam và gây ra Thảm sát Ba Chúc trước khi Việt Nam phản kích.[83] Việt Nam đã thực hiện các quyền tự vệ chính đáng khi bị tấn công được ghi trong Điều 51 Hiến chương Liên Hợp Quốc. Đây còn là cuộc giải cứu nhân đạo của Việt Nam nhằm giúp Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng do Khmer Đỏ gây ra. Lực lượng Quân tình nguyện Việt Nam có mặt ở Campuchia trong 10 năm để giúp chính quyền mới của Campuchia xây dựng đất nước.[84] Hành động của Việt Nam xuất phát từ nhu cầu tự vệ chính đáng, trách nhiệm quốc tế cũng như lương tâm của một dân tộc từng chịu nhiều áp bức và ngoại xâm.[85] Sự đóng góp, hy sinh của Việt Nam tại Campuchia vừa vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc vừa với tinh thần quốc tế trong sáng và cao cả.[86]

Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Vương quốc Campuchia coi phiên toàn Xét xử những tội ác của Khmer Đỏ là minh chứng rõ nét rằng việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia là tự vệ và thực hiện nghĩa vụ quốc tế về bảo vệ quyền con người chứ không phải là hành vi xâm lược mà phía tiến hành hành động xâm lược là Khmer Đỏ và nạn nhân bị xâm lược là Việt Nam.[85][87][88][89] Ngay cả Thủ tướng Hun Sen cũng thừa nhận Việt Nam đã cứu Campuchia khỏi họa diệt chủng[90] và việc quân tình nguyện Việt Nam ở lại Campuchia là theo yêu cầu của chính quyền mới[91][92]

Căng thẳng biên giới với Thái Lan

Campuchia bị mất, Thái Lan trở nên một địa bàn chiến lược quan trọng để Trung Quốc có thể giúp đỡ cho Khmer Đỏ tiếp tục cuộc chiến. Sau khi họp xong với Ieng Sary, Đặng Tiểu Bình bí mật cử Cảnh Biểu, Ủy viên Bộ Chính trị, cùng Thứ trưởng ngoại giao Hàn Niệm Long sang Bangkok hội đàm với Thủ tướng Thái Kriangsak Chomanan tại căn cứ không quân Utapao. Sau khi Việt Nam liên minh với Liên Xô và tấn công Campuchia, Thái Lan không còn giữ thái độ trung lập nữa, Kriangsak đồng ý để Trung Quốc dùng lãnh thổ Thái Lan tiếp tế cho Khmer Đỏ.

Thủ tướng Thái Kriangsak cũng tìm kiếm hỗ trợ từ Washington nhằm ngăn ngừa Hà Nội. Để biểu thị sự ủng hộ Thái Lan, Hoa Kỳ chuyển giao cho Thái số lượng đạn dược trị giá $11.3 triệu đô la tồn kho tại Thái Lan từ thời chiến tranh Việt Nam. Chính quyền Carter cũng hứa hẹn thúc đẩy việc chuyển giao chiến đấu cơ F-5E và các loại vũ khí hiện đại khác mà Thái đã đặt mua, và tăng lượng vũ khí bán cho Thái từ mức 30 triệu đô la một năm lên 50 triệu. Tuy vậy, trong trường hợp chiến tranh nổ ra, quân Thái Lan vẫn không phải là đối thủ của Việt Nam. Với lực lượng 141.000 quân, số lượng quân Thái chỉ bằng 1/4 quân Việt Nam, và họ không có được kinh nghiệm chiến đấu như quân Việt Nam.[47]

Sau khi tiến hành đưa quân vào Campuchia, Việt Nam đã chủ động thông báo với Hội đồng Bảo an vào ngày 11/1/1979 theo quy định về tự vệ chính đáng được quy định tại Điều 51 Hiến chương LHQ. Trong đó, Đại sứ Đại sứ Việt Nam Hà Văn Lâu tuyên bố cộng đồng quốc tế trong hai tuần qua đã quá tập trung vào việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia mà quên mất rằng chính quyền Khmer Đỏ đã phạm tội ác diệt chủng suốt thời gian trước đó, việc lật đổ chính quyền Khmer Đỏ là cần thiết để kịp thời ngăn chặn tội ác này. Ông cũng cho rằng Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước Campuchia đã thực hiện cuộc cách mạng của nhân dân Campuchia khi lật đổ chế độ Khmer Đỏ, việc quân đội Khmer Đỏ tấn công lãnh thổ Việt Nam đã buộc Quân đội nhân dân Việt Nam thực hiện tự vệ chính đáng theo Hiến chương Liên hợp quốc.[48]

Ngày 12/1/1979, Hội đồng Bảo an mời Việt Nam, Cuba, Hoàng tử Norodom Sihanouk phát biểu tại phiên họp của HĐBA. Tại đây, Hoàng tử Norodom Sihanouk cho rằng Việt Nam đã thực hiện một cuộc "xâm lược trắng trợn" kiểu chiến tranh chớp nhoáng và đề nghị HĐBA ra nghị quyết yêu cầu Việt Nam rút quân và ngừng mọi hành động can thiệp vào Campuchia nhưng không đề nghị HĐBA lên án Việt Nam. Tuy nhiên, do bị Liên Xô và Tiệp Khắc bỏ phiếu chống nên yêu cầu của Hoàng tử Norodom Sihanouk không được thực hiện. Hội đồng Bảo an thống nhất sẽ họp lại sau khi Việt Nam rút quân. Đại diện Mỹ Andrew Young cho rằng tuyên bố của Hoàng tử Norodom Sihanouk cơ bản chỉ liên quan tới việc lật đổ chính quyền ở Campuchia. Trung Quốc cáo buộc Liên Xô là "đại bá" và Việt Nam là "tiểu bá". Thay mặt ngoại trưởng Cộng hòa nhân dân Campuchia Hun Sen, Đại sứ Việt Nam Hà Văn Lâu đưa ra đề nghị không nên cho phép Hoàng tử Norodom Sihanouk được phát biểu tại các phiên họp của HĐBA vì cho rằng Hiến chương LHQ không cho phép một nhà nước được sụp đổ được phát biểu tại đây. Đại sứ Hà Văn Lâu cũng cho rằng Việt Nam chỉ chiến đấu với lực lượng vũ trang Khmer Đỏ còn việc Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước Campuchia lật đổ Khmer Đỏ là công việc nội bộ của Campuchia nên Việt Nam không can thiệp vào việc này, Việt Nam đơn thuần chỉ thực hiện tự vệ chính đáng. Đại sứ Raul Roa của Cuba chỉ trích trực tiếp Hoàng tử Norodom Sihanouk là con tốt của Trung Quốc và cho rằng vị hoàng tử Campuchia phải chịu trách nhiệm khi chính quyền Khmer Đỏ thực hiện các tội ác. Hoàng tử Norodom Sihanouk đã tỏ ra hài lòng khi Mỹ tiếp tục ủng hộ Khmer Đỏ giữ ghế tại Liên hợp quốc mặc dù thừa nhận chính quyền này đã phạm phải nhiều tội ác cũng như không chấp nhận việc Việt Nam can thiệp vào Campuchia.[49] Anh Quốc tuyên bố "dù nhân quyền ở Campuchia có thế nào, không thể tha thứ cho Việt Nam, vốn có nhân quyền cũng đáng lên án, khi vi phạm lãnh thổ Campuchia Dân Chủ". Pháp tuyên bố "Quan niệm rằng vì một chính quyền đáng xấu hổ, mà có thể biện minh cho can thiệp nước ngoài và lật đổ, thật là nguy hiểm.". Na Uy "mạnh mẽ phản đối" các vi phạm nhân quyền của Pol Pot, nhưng vi phạm nhân quyền này "không thể biện hộ cho hành động của Việt Nam". Bồ Đào Nha nói hành động của Việt Nam "vi phạm rõ rệt nguyên tắc không can thiệp" bất chấp hồ sơ nhân quyền "tệ hại" ở Campuchia. New Zealand cũng nói Campuchia Dân Chủ của Pol Pot có nhiều cái xấu, nhưng "việc xấu của một nước không biện minh cho sự xâm lăng lãnh thổ của một nước khác". Australia "hoàn toàn ủng hộ quyền của Campuchia Dân Chủ được độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ". Singapore phát biểu "Không nước nào có quyền lật đổ chính phủ Campuchia Dân Chủ, dù chính phủ này có đối xử tàn tệ nhân dân thế nào. Đi ngược nguyên tắc này có nghĩa là thừa nhận chính phủ nước ngoài lại có quyền can thiệp và lật đổ chính phủ nước khác." và họ lo ngại Việt Nam đang đe dọa an ninh của Singapore và khu vực.

Ngày 16/3/1979, Hội đồng Bảo an bỏ phiếu về một nghị quyết do Asean bảo trợ, kêu gọi ngừng bắn trong toàn khu vực, rút quân đội nước ngoài, và giải quyết bằng hòa bình. Liên Xô buộc phải dùng quyền phủ quyết để bác bỏ nghị quyết này.

Ngày 21/9/1979, Đại hội đồng tổ chức phiên họp để xác định người đại diện của Campuchia tại Liên hợp quốc. Việt Nam, Liên Xô và 33 nước khác ủng hộ Cộng hòa Nhân dân Campuchia giữ ghế này nhưng 71 nước khác, gồm Trung Quốc, Mỹ, Thái Lan, Singapore, Malaysia, Indonesia, Philippines (bên ủng hộ Khmer Đỏ mạnh mẽ nhất) ủng hộ Khmer Đỏ, 34 nước bỏ phiếu trắng và 12 nước không bỏ phiếu khiến cho Khmer Đỏ tiếp tục giữ ghế này cho tới năm 1990. Phía Việt Nam và Liên Xô cho rằng Khmer Đỏ đã phạm vào các tội ác diệt chủng và không phải chính quyền chính danh ở Campuchia nên không có tư cách giữ ghế trong Liên hợp quốc. Phía Trung Quốc và 5 nước Thái Lan, Singapore, Malaysia, Indonesia, Philippines cho rằng dù bất kỳ chuyện gì đã xảy ra ở Campuchia thì ghế ở Liên hợp quốc vẫn phải thuộc về Khmer Đỏ. Dù bị chỉ trích mạnh mẽ nhưng Khmer Đỏ vẫn coi đây là một chiến thắng ngoại giao của mình. Phiên bỏ phiếu đã bị trì hoãn khi Đại sứ Ấn Độ tại Liên hợp Quốc Brajesh Chandra Mishra đề xuất để trống ghế này nhưng phía Singapore và Malaysia phản đối khi vẫn tiếp tục ủng hộ Khmer Đỏ, sau đó Ân Độ vẫn giữ quan điểm về việc không chấp nhận để một chế độ diệt chủng có ghế trong Liên hợp quốc. Phía Cộng hòa Nhân dân Campuchia cho rằng do họ đang thực tế lãnh đạo đất nước Campuchia một cách đầy đủ và ổn định nên họ mới có quyền nhận được ghế ở Liên hợp quốc. Mặc dù Khmer Đỏ tuyên bố vẫn kiểm soát 1/4 lãnh thổ Campuchia nhưng Pháp cho rằng Khmer Đỏ đã thổi phồng quá nhiều. Đại sứ Tommy Koh Thong Bee của Singapore cho rằng "nếu chúng tôi (những nước ủng hộ Khmer Đỏ) ủng hộ học thuyết can thiệp nhân đạo thì thế giới vốn dĩ đang rất nguy hiểm cho các nước nhỏ thì sẽ còn nguy hiểm hơn cho những nước này". Đại sứ Hà Văn Lâu của Việt Nam khẳng định việc Việt Nam triển khai quân đội ở Campuchia là không liên quan đến lĩnh vực chủ quyền quốc gia, chủ quyền của Campuchia không bị xâm phạm và việc quân đội Việt Nam ở Campuchia là một nhân tố bảo vệ hòa bình và ổn định ở khu vực. Phía Việt Nam cho rằng họ đang thực hiện nghĩa vụ quốc tế về bảo vệ quyền con người chứ không hề xâm phạm chủ quyền Campuchia, việc sử dụng lực lượng vũ trang là biện pháp cuối cùng khi Việt Nam đã chủ động đàm phán ngoại giao với Khmer Đỏ từ năm 1975 nhưng không có kết quả và việc lực lượng vũ trang Việt Nam thực hiện nghĩa vụ quốc tế là biện pháp tương xứng để kịp thời chấm dứt tội ác chống lại loài người do Khmer Đỏ thực hiện ở Campuchia.[50][51]

Ngày 14/11/1979, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc ra nghị quyết số 34/22 với nội dung quan ngại sâu sắc cuộc xung đột ở Campuchia đang leo thang và đe dọa nghiêm trọng hòa bình, ổn định ở Đông Nam Á, hối tiếc sâu sắc về sự can thiệp vũ trang từ bên ngoài (không nói rõ nước nào) vào nội bộ của Campuchia, cảnh báo nghiêm trọng về việc xung đột ở Campuchia có thể lan sang các nước láng giếng khiến các cường quốc phải can thiệp sâu hơn, quan ngại sâu sắc tình trạng khốn cùng mà nhân dân Campuchia đang phải chịu đựng, kêu gọi mọi thành viên Liên hợp quốc sử dụng mọi biện pháp khẩn cấp để tái định cư đối với những người Campuchia phải từ bỏ nhà cửa, kêu gọi các bên tham gia xung đột tôn trọng các quyền cơ bản của con người và ngừng bắn, đề nghị các bên rút lực lượng nước ngoài và hạn chế can thiệp công việc nội bộ của Campuchia để người dân Campuchia được tự do lựa chọn tương lai và số phận của mình một cách dân chủ, các bên sử dụng các biện pháp hòa bình để giải quyết xung đột.[52] Nghị quyết do 5 nước Thái Lan, Singapore, Malaysia, Philippines và Indonesia đề xuất và Trung Quốc vận động hành lang mạnh mẽ được thông qua với 91 phiếu thuận, 21 phiếu chống và 29 phiếu trắng đồng thời không nêu đích danh quốc tịch lực lượng nước ngoài ở Campuchia. Các đề xuất lo ngại cuộc tấn công của Việt Nam có thể lan sang Thái Lan và mặc dù chính quyền Pol Pot gây ra cái chết của hàng trăm nghìn người thì nguyên tắc không can thiệp vào nội bộ nước khác vẫn phải được duy trì bảo vệ các nước nhỏ như họ. Phía Việt Nam nhấn mạnh việc họ triển khai lực lượng vũ trang ở Campuchia là do Cộng hòa nhân dân Campuchia đề nghị và để thực hiện nghĩa vụ quốc tế về bảo vệ quyền con người ở Campuchia, nghị quyết 34/22 của Đại hội đồng là sự đồng lõa với việc Trung Quốc xâm lược Việt Nam vào tháng 2/1979. Mặc dù Việt Nam và Liên Xô đề xuất sáng kiến xây dựng "khu vực hòa bình" ở Đông Nam Á để giải quyết xung đột nhưng với sự cản trở của Mỹ và Trung Quốc, Hội đồng Bảo an đã không thể thông qua nghị quyết liên quan đến sáng kiến này.[53]

Sau đó Đại hội đồng Liên Hợp Quốc tiếp tục ra nhiều nghị quyết về việc Việt Nam đóng quân tại Campuchia:

Tuy nhiên, Hiến chương Liên hợp quốc quy định nghị quyết của Đại hội đồng chỉ có giá trị khuyến nghị mà không có giá trị ràng buộc về pháp lý, chỉ có nghị quyết của Hội đồng Bảo an mới có giá trị ràng buộc.[61]

Ngày 20/9/1990, Hội đồng Bảo an thông qua Nghị quyết số 668, trong đó công nhận Hội nghị Paris về vấn đề Campuchia đã có nhiều đóng góp lớn để thực hiện giải pháp chính trị ở Campuchia, đại diện Hội đồng Dân tộc Tối cao sẽ giữ ghế của Campuchia tại Liên hợp quốc thay vì để Khmer Đỏ giữ ghế này.[62] Đây là nghị quyết đầu tiên và có tính ràng buộc các bên liên quan ở Campuchia sau hơn 10 năm mà không có bất kỳ nghị quyết nào cũng như không có bất kỳ lệnh trừng phạt hay lên án đối với các bên liên quan. Sau đó, Hội đồng Bảo an tiếp tục thông qua các Nghị quyết số 717, 718, 728, 745, 766, 783, 792, 810, 826, 835, 840, 860, 880 liên quan đến Campuchia.

Năm 1997 hai Đồng Thủ tướng Campuchia viết thư Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc xin trợ giúp tổ chức xét xử các lãnh đạo cao cấp của Khmer Đỏ. Sau đàm phán lâu dài hai bên ký hiệp định ngày 6 tháng 6 năm 2003, được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc phê chuẩn Tòa án Đặc biệt Tư pháp Campuchia.[63]